Tiền của tôi

Dòng tiền có dịch chuyển từ chứng khoán sang bất động sản?

Thanh khoản chứng khoán giảm mạnh khi bất động sản nóng lên ở phía Bắc nhưng chuyên gia cho rằng nhà đầu tư đang đợi thời cơ hấp dẫn hơn để vào thị trường.

Từ nửa cuối tháng 6 đến nay, tổng giá trị giao dịch sàn HoSE đạt trên 20.000 tỷ đồng đã là điều hiếm gặp trên thị trường. Chứng khoán lặp đi lặp lại câu chuyện giao dịch lình xình, nhiều phiên “ru ngủ” nhà đầu tư.

Theo VinaCapital, giá trị giao dịch trung bình mỗi ngày trên thị trường chứng khoán trong quý tính trên cả ba sàn HoSE, HNX và UPCoM chỉ khoảng 18.600 tỷ đồng. Trong khi đó ở quý III, giá trị giao dịch trung bình mỗi ngày hơn 25.000 tỷ. Điều đó cho thấy tâm lý nhà đầu tư có phần thận trọng sau những áp lực về tỷ giá và lãi suất trong 6 tháng đầu năm, đồng thời những căng thẳng địa chính trị trên thế giới tiếp tục diễn ra và nền kinh tế toàn cầu có nhiều ẩn số khó dự báo.

Tính riêng sàn HoSE, tháng 9 là thời điểm VN-Index trở lại gần vùng giá hồi tháng 5-6. Tuy nhiên khối lượng giao dịch chỉ đạt hơn 13,2 tỷ cổ phiếu, là tháng giảm thứ tư liên tiếp. Trong năm nay, con số này chỉ cao hơn tháng 2 – giai đoạn nghỉ Tết nguyên đán. Theo Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), giá trị khớp lệnh tháng 9 giảm trên diện rộng với 71,5% số lượng cổ phiếu có sự sụt giảm về thanh khoản trung bình.

Trong khi đó, các kênh đầu tư khác lại chứng kiến dòng tiền đổ về tăng mạnh, nhất là bất động sản. VinaCapital dẫn các nguồn tin của họ cho rằng nhiều khả năng khối lượng giao dịch địa ốc tăng tới 35% so với cùng kỳ năm trước trong 9 tháng đầu năm 2024.

Thị trường đang ghi nhận “cơn sốt” ở khu vực phía Bắc. Dữ liệu của CBRE chỉ ra trong 9 tháng đầu năm, tổng nguồn cung mở bán căn hộ mới ở Hà Nội có thể đạt hơn 19.000 căn, vượt tổng nguồn cung cả năm 2023. Đây cũng là tổng nguồn cung sơ cấp lớn nhất ghi nhận tại Thủ đô trong vòng 5 năm trở lại đây.

Lực cầu đầu tư lớn, dòng tiền vẫn đổ về sản phẩm phục vụ nhu cầu ở thực tại trung tâm Hà Nội. Nhờ đó, thanh khoản thị trường duy trì tích cực. Tổng căn hộ bán được trong quý III vượt 8.000 căn, gấp hai lần cùng kỳ năm ngoái. Lượng giao dịch nhà liền thổ cũng tăng gần gấp 5 lần so với quý trước bởi nguồn cung dồi dào hơn.

Một dãy tòa chung cư cũ sát đường Vành đai 3 (Hà Nội). Ảnh: Ngọc Thành

Một dãy tòa chung cư cũ sát đường Vành đai 3 (Hà Nội). Ảnh: Ngọc Thành

Liệu dòng tiền có “chạy” từ chứng khoán sang các kênh đầu tư khác, nhất là bất động sản? Trả lời VnExpress, ông Võ Huỳnh Tuấn Kiệt – Giám đốc bộ phận Tiếp thị dự án nhà ở CBRE – đánh giá các kênh tài chính trong thời gian qua có diễn tiến khá bấp bênh nên nhà đầu tư dễ có xu thế điều hướng dòng tiền và đó là tâm lý phổ biến.

“Bất động sản luôn là lựa chọn trước nhất mỗi khi nhà đầu tư muốn tìm nơi trú ẩn cho tài sản hay dịch chuyển dòng tiền của họ vì độ an tâm khi sở hữu một ngôi nhà sẽ rất lớn”, ông nói.

Ở góc nhìn khác, bà Phạm Ngọc Thiên Thanh – Phó giám đốc bộ phận Nghiên cứu và Tư vấn CBRE – đề cập đến câu chuyện giá thuê nhà hiện tại đang cải thiện tốt ở cả TP HCM, Hà Nội và các địa phương khu vực lân cận nhờ khách du lịch, lượng chuyên gia nước ngoài quay trở lại. Nhờ đó, tỷ suất lợi nhuận từ cho thuê tăng lên, cũng kích thích sự chuyển dịch dòng tiền của nhà đầu tư từ nơi khác vào loại hình này. Bà lấy ví dụ ở Bình Dương, một căn hộ có giá 2-3 tỷ đồng đang có thể cho thuê với giá 7-8 triệu, thậm chí hơn 10 triệu đồng mỗi tháng.

Không chỉ các bên nghiên cứu thị trường địa ốc, một số bộ phận phân tích chứng khoán cũng cùng quan điểm trên. Trong báo cáo gần đây, SGI Capital – đơn vị quản lý quỹ mở The Ballad Fund – quan sát thấy việc bất động sản thực nóng lên đang là tâm điểm hút dòng tiền nội. Điều này khá tương đồng chu kỳ 2010-2011, thị trường bất động sản phía Bắc xảy ra sốt nóng cùng lúc với giai đoạn thanh khoản của chứng khoán cạn kiệt và lãi suất ngân hàng nhích tăng.

“Thị trường chứng khoán không kéo dài sự tích cực với thông tin vĩ mô tốt trong tháng 9 phần nào thể hiện sự khó khăn về việc thu hút dòng tiền mới trong bối cảnh khan hiếm các cơ hội hấp dẫn”, đơn vị này đánh giá.

Nhưng kết luận chứng khoán đang kém thu hút dòng tiền vẫn không thể nhận về đồng thuận của tất cả chuyên gia và đơn vị phân tích, quan sát thị trường. Chuyên gia phân tích độc lập Huỳnh Hoàng Phương nói nếu xét trên diện rộng về tương quan giữa các kênh đầu tư, cổ phiếu vẫn có sức hút tốt.

Ông chỉ ra vàng tăng giá nhưng rất khó giao dịch. Lãi suất tiết kiệm nhích lên ở mức chưa quá hấp dẫn. Kênh trái phiếu doanh nghiệp bị ách tắc vì thiếu lượng cung tốt khi các công ty đang ưu tiên vay ngân hàng để hưởng lãi suất thấp thay vì huy động vốn bằng trái phiếu. Do đó nguồn hàng chủ yếu là các doanh nghiệp có rủi ro cao.

Trong bối cảnh đó của các kênh đầu tư đòi hỏi vốn không quá lớn, cổ phiếu vẫn được xem là lựa chọn tối ưu. Còn việc bản thân chứng khoán có thu hút được dòng tiền hay không, phụ thuộc vào câu chuyện các nhóm ngành trên thị trường phải có triển vọng, nhất là ngân hàng và bất động sản. Nói như thế là vì trừ hai đại diện trên, các nhóm khác đã hút vốn rất tốt trong thời gian qua, kéo thị giá cổ phiếu các ngành lên mức cao, nhiều mã vượt mức đỉnh từng thiết lập khi VN-Index cán mốc 1.500 điểm.

“Dòng vốn sẽ trở lại chứng khoán khi thị trường xuất hiện câu chuyện thật sự hấp dẫn”, ông Phương dự đoán. Chuyên gia này gợi ý các chất xúc tác có thể quan sát là kết quả kinh doanh quý III, chất lượng tài sản của các ngân hàng cùng việc giải quyết vấn đề pháp lý của các dự án bất động sản.

Giao dịch tại một công ty chứng khoán ở quận 1 (TP HCM), tháng 10/2024. Ảnh: An Khương

Giao dịch tại một công ty chứng khoán ở quận 1 (TP HCM), tháng 10/2024. Ảnh: An Khương

Tương tự khi xét trên mặt bằng chung, ông Đinh Đức Minh – Giám đốc Đầu tư VinaCapital – cho rằng lựa chọn kênh đầu tư phụ thuộc vào mức độ chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư. Lãi suất tiết kiệm thấp nhưng đây là kênh đầu tư an toàn. Bất động sản vẫn luôn là lựa chọn yêu thích của đa số nhà đầu tư Việt Nam. Tuy nhiên theo ông, đầu tư địa ốc đòi hỏi một số vốn lớn và mặc dù thị trường đang ấm lên, các nhà đầu tư cần lưu ý việc giá nhà đất đang cao so với thu nhập trung bình của người dân.

Với chứng khoán, nhiều nhà đầu tư đang trong tâm lý chờ đợi thị trường có xu hướng rõ ràng. Tuy nhiên, VinaCapital nhận thấy hiện tại đã có nhiều yếu tố thuận lợi hơn so với vài tháng trước đây như hầu hết số liệu kinh tế của Việt Nam đều tốt hơn kỳ vọng, áp lực về lãi suất và tỷ giá giảm đáng kể, các số liệu của nền kinh tế Mỹ hiện tại vẫn khá ổn định.

Chỉ số VN-Index đang giao dịch ở mức định giá hợp lý cho đầu tư dài hạn (chỉ số giá thị trường trên thu nhập mỗi cổ phiếu – P/E năm 2024 khoảng 12 lần) và công ty quản lý quỹ này vẫn giữ dự báo tăng trưởng lợi nhuận trung bình của các doanh nghiệp niêm yết ở mức quanh 20% cho 2024-2025.

“Tất cả những yếu tố này cùng với triển vọng nâng hạng của thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ là động lực tích cực cho thị trường”, ông Minh nhận định.

Tất Đạt

Chiến lược đầu tư ‘canh me’ thị trường chưa hẳn có lãi lớn

Theo Dragon Capital, hiệu suất giữa nhóm “canh me” thị trường với đầu tư đều đặn không quá chênh lệch trong khi phải tốn nhiều công sức, thời gian hơn.

Tại buổi gặp gỡ nhà đầu tư hôm 10/8, ông Võ Nguyễn Khoa Tuấn – Chuyên gia cấp cao khối Chứng khoán của Dragon Capital – cho rằng việc tối ưu lợi nhuận qua mua – bán liên tục, “canh me” thị trường tăng hay giảm để kiếm lời là điều chính đáng. “Canh me” thị trường, hay “market timing”, là chiến lược dự đoán diễn biến của thị trường và dựa vào đó để mua hoặc bán theo từng thời điểm tương ứng.

Tuy nhiên theo chuyên gia, chiến lược trên mang lại hiệu quả không cao. Thống kê hiệu suất giữa hai nhóm khách hàng quỹ DCDS từ đầu năm 2023 đến nay cho thấy, nhóm mua và bán theo VN-Index mỗi khi biến động mạnh đạt hiệu suất 29,5%. Nhóm này phải thường xuyên theo dõi thị trường, nắm bắt và sử dụng các dữ liệu để phân tích theo nhiều phương pháp như cơ bản, kỹ thuật hay định tính nhằm đưa ra dự đoán thời điểm giao dịch có lợi. Trong khi đó, những khách hàng mua đều đặn và nắm giữ – vốn không mất quá nhiều thời gian thực hiện các thao tác kể trên – có lãi hơn cao với 39,2%.

“Những người mua bán theo biến động thị trường phải bỏ công sức rất nhiều, mỗi ngày đọc tin tức, phân tích số liệu, suy nghĩ. Giao dịch nhiều cũng kéo theo chi phí nhiều hơn, tinh thần cũng dễ stress”, ông Tuấn nói thêm.

Đầu tư theo kiểu canh me cũng dễ rơi vào chu kỳ tâm lý nhà đầu tư trên thị trường. Ảnh: Dragon Capital

Đầu tư theo kiểu “canh me” cũng dễ rơi vào chu kỳ tâm lý nhà đầu tư trên thị trường. Ảnh: Dragon Capital

Đội ngũ Dragon Capital thực hiện mô hình thử nghiệm với giả định, một nhà đầu tư luôn dự báo đúng VN-Index hàng tháng và chỉ mua vào khi trước khi thị trường tăng, tránh được tất cả những đợt điều chỉnh. Đối chiếu là một nhà đầu tư theo chiến lược trung bình giá, tức mua vào đều đặn và có kỷ luật, thay vì đầu tư một lần với số tiền lớn.

Kết quả là tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR – chỉ tỷ lệ lãi hàng năm dự kiến thu được từ khoản đầu tư, đã loại bỏ các yếu tố khách quan) không chênh lệch cao giữa hai nhóm. Nhà đầu tư chỉ giải ngân vào các tháng VN-Index tăng có IRR đạt 15,4%, còn nhà đầu tư giải ngân đều hàng tháng ghi nhận khoảng 14,8%.

Ông Khoa Tuấn đánh giá, việc đầu tư theo market timing mang lại hiệu suất không quá vượt trội trong khi công sức bỏ ra rất nhiều, chưa kể việc tiên tri đúng toàn bộ về thị trường là điều không thể, dù đối với các chuyên gia.

“Kỷ luật đầu tư đều đặn là chìa khóa dẫn tới thành công, không phải dự đoán thị trường lên hay xuống”, ông kết luận.

Nhà đầu tư đang theo dõi thị trường chứng khoán qua bảng điện. Ảnh: Quỳnh Trần

Nhà đầu tư đang theo dõi thị trường chứng khoán qua bảng điện. Ảnh: Quỳnh Trần

Từ lâu, đầu tư đều đặn và nắm giữ lâu dài được nhiều tổ chức tài chính xem là chiến lược tốt khi tham gia thị trường. Theo Công ty TNHH Quản lý quỹ Manulife Investment Việt Nam (Manulife IM), trong những lúc thị trường biến động, chiến lược này vẫn có mức sinh lời tốt hơn so với việc tránh không rót tiền. Kết luận trên đưa ra khi họ thực hiện tính toán về thử mức độ sinh lời của hai trường hợp.

Manulife IM giải thích, khi nhà đầu tư lo ngại những biến động và tránh rót tiền vào những năm đó, cũng vô tình khiến họ bỏ qua những cơ hội gia tăng tích lũy tài sản tốt ở mức giá thấp để được hưởng lợi khi thị trường hồi phục ở năm sau đó. Ngoài ra, nếu đó chỉ là biến động tiêu cực ngắn hạn trong năm, nhà đầu tư cũng bỏ lỡ lợi nhuận cho cả quá trình về sau.

Đầu tư đều đặn và nắm giữ cũng phù hợp với triển vọng thị trường chứng khoán trong dài hạn. Theo VinaCapital, kinh tế đang phục hồi tốt và đã được thể hiện rõ qua kết quả kinh doanh quý II của các doanh nghiệp niêm yết. Đơn vị này thống kê lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp niêm yết đã tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước. VinaCapital nói con số này “cực kỳ ấn tượng” và vượt dự báo của họ.

Với đà tăng trưởng trên, công ty quản lý quản quỹ dự báo lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết có thể tăng trên 20% trong cả năm. Mặc dù có thể xảy ra những thời điểm biến động, họ kỳ vọng xu hướng chung của thị trường chứng khoán vẫn sẽ tích cực trong thời gian tới. Thêm vào đó, định giá của thị trường vẫn còn giữ ở mức tốt cho đầu tư dài hạn.

“Nhà đầu tư nên kiên định với chiến lược nắm giữ lâu dài, rót tiền định kỳ để có được kết quả tích cực trong tương lai”, nhóm phân tích VinaCapital khuyến nghị.

Tất Đạt

Vì sao quỹ mở chưa thu hút nhà đầu tư?

Tâm lý thích khoe lời khi tự chơi cổ phiếu, hệ thống phân phối hẹp, truyền thông đến khách hàng kém, khiến quỹ mở thu hút rất ít nhà đầu tư tham gia.

Nửa năm qua, Mạnh Dũng (27 tuổi) dành 5-6 triệu đồng mỗi tháng để rót vào ba chứng chỉ quỹ mở cổ phiếu. Thói quen trên hình thành sau giai đoạn anh “bơi mãi chẳng về bờ” ở lần đầu tham gia thị trường bằng cách tự đầu tư cổ phiếu và hứng chịu “cú sập” hồi tháng 9-10 năm ngoái.

Dũng hiểu nguyên nhân thua lỗ phần nhiều do bản thân anh không đủ thời gian, hiểu biết về thị trường để theo dõi và có những biện pháp điều chỉnh phù hợp trước biến động. Do đó, anh tìm đến chứng chỉ quỹ mở. Tuy nhiên, nhiều bạn bè của anh thậm chí chưa từng nghe về khái niệm chứng chỉ quỹ, một số lại mặc định đó là hình thức đầu tư của những người có tài sản lớn.

Theo thống kê của Vụ Quản lý quỹ thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC), tính đến cuối năm 2023, số nhà đầu tư tham gia chứng chỉ quỹ khoảng 300.000 người. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và rất khiêm tốn so với 7,23 triệu tài khoản chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân ở cùng thời điểm.

Các quỹ đầu tư chứng khoán đang quản lý tổng giá trị tài sản ròng (NAV) gần 68.000 tỷ đồng. Con số trên tương đương hơn 0,66% GDP năm 2023 và thấp hơn hàng chục lần so với các nước trong khu vực như Malaysia hay Thái Lan (lần lượt đạt khoảng 11% và 28% GDP).

Giải thích về thực trạng này tại một sự kiện tài chính gần đây, TS Cấn Văn Lực – thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, cho rằng có nhiều nguyên nhân. Trước hết, nhiều người thường có tâm lý thích thể hiện bản thân khi có lãi. Do đó, họ có xu hướng yêu thích việc rót tiền tự đầu tư hơn là thông qua các tổ chức tài chính. Chuyên gia cho rằng tâm lý này kéo theo nhiều rủi ro nếu nhà đầu tư thiếu kiến thức và ba năm qua nhiều người đã nhận được bài học thực tế.

Song song đó, nhà đầu tư chưa có niềm tin vững chắc vào các công ty chứng khoán, quản lý quỹ. “Họ không biết các khái niệm về quỹ, dẫn đến cảm giác thiếu tin tưởng”, ông Lực nói.

TS Cấn Văn Lực chia sẻ tại sự kiện ra mắt quỹ mở TCGF. Ảnh: TCAM

TS Cấn Văn Lực chia sẻ tại sự kiện ra mắt quỹ mở TCGF. Ảnh: TCAM

Thực tế, phần lớn người xung quanh Mạnh Dũng đều phản ứng không tích cực khi nghe anh đầu tư chứng chỉ quỹ. Một số đồng nghiệp từng hỏi anh rằng vì sao không tự chơi cổ phiếu để có lời hơn, trong khi vài người cảnh báo cẩn trọng khi giao tiền cho người lạ đầu tư.

“Có người còn nói với tôi rằng, đừng quá tin tưởng vì các công ty quản lý quỹ sẽ không nỗ lực đầu tư nhiều cho khách hàng, họ chỉ cần đạt hiệu suất cao hơn VN-Index là xong”, Dũng chia sẻ.

Về nghi vấn này, ông Võ Trung Cương – Giám đốc quản lý quỹ thuộc Công ty Quản lý quỹ Thành Công (TCAM), khẳng định các nhà quản lý đều mong muốn thực hiện tốt nhất những gì đề ra và cam kết với khách hàng. Sở dĩ các quỹ thường so sánh với VN-Index là để đánh giá hiệu quả của một danh mục cổ phiếu có chọn lọc với tất cả cổ phiếu (tức VN-Index). Từ đó, khách hàng có thể kiểm chứng xem việc phân tích, lựa chọn danh mục cổ phiếu của các nhà quản lý tốt hay không.

Hiệu quả luôn là thước đo quan trọng nên ông Cương tin rằng đa số đơn vị quản lý quỹ đều nỗ lực làm tốt và không ai muốn bị tụt lại phía sau trên thị trường. “Một nhà quản lý quỹ có hiệu quả không tốt cũng giống như đang bán một sản phẩm kém chất lượng. Về lâu dài chắc chắn sẽ không thể thu hút khách hàng đến với họ”, ông nói thêm.

Quản lý gần 125.000 tỷ đồng tài sản, Công ty TNHH Quản lý quỹ Manulife Investment Việt Nam (Manulife IM) cho rằng quỹ mở có mức độ phổ biến khá thấp dù có mặt tại Việt Nam hơn 10 năm. Tổng giám đốc Trần Thị Kim Cương nhìn nhận điều này một phần do người dân vẫn có thói quen và kỳ vọng vào tiền gửi tiết kiệm. Ngoài ra, hệ thống phân phối chứng chỉ quỹ mở chưa rộng rãi khi các công ty quản lý chính là đại lý phân phối. Song song đó, việc truyền thông đến nhà đầu tư cũng chưa được đẩy mạnh, khiến đây vẫn là hình thức xa lạ với nhiều người.

Quỹ mở có lịch sử phát triển hơn 100 năm trên thế giới và là sản phẩm đầu tư phổ biến tại Mỹ, châu Âu và các nước phát triển. Tại Mỹ, nơi được xem là chiếc nôi hình thành và phát triển của loại quỹ này, đến đầu năm nay có 49% hộ gia đình lựa chọn đầu tư cho mục đích hưu trí. Quy mô quỹ mở tại nền kinh tế lớn nhất thế giới lên đến 23.455 tỷ USD, chiếm 81% GDP.

Xu hướng đầu tư này lan rộng sang các nước đang phát triển, nhất là khu vực châu Á. Quỹ mở tại Hong Kong (Trung Quốc) chiếm 74% GDP, Singapore là 31% và Malaysia là 29% GDP . “Danh mục đầu tư đa dạng, chọn lọc, tính thanh khoản cao và thường được quản lý bởi những tập đoàn tài chính uy tín là những điểm thu hút của quỹ mở”, Manulife IM nhận định.

Thị trường hiện có hơn 50 quỹ kiểu này đang hoạt động. Nhiều nhất là các quỹ tập trung cổ phiếu, theo sau là trái phiếu và số lượng ít là các quỹ cân bằng cả hai. Vừa ra mắt quỹ mở cổ phiếu hồi tháng trước, Giám đốc Quản lý quỹ TCAM cho rằng thị trường có nhiều sản phẩm, nhà đầu tư sẽ có lợi khi họ có thông tin so sánh. Việc cần làm là đưa ra những lựa chọn phù hợp.

Ông Võ Trung Cương gợi ý nhà đầu tư trước tiên cần hiểu rõ mục tiêu tài chính cá nhân, sau đó tìm hiểu các quỹ mở chính thống để tìm sản phẩm phù hợp. Thời điểm ban đầu, nhà đầu tư nên phân bổ 2-3 quỹ mở khác nhau để đa dạng hóa lựa chọn, tìm hiểu, theo dõi và so sánh dần hoạt động của các quỹ này trong 6 tháng đến một năm. Cuối cùng, họ sàng lọc, chọn quỹ có thể tin tưởng được để ủy thác mục tiêu tài chính trong chu kỳ dài hạn hơn.

Ngoài ra, theo CEO Manulife IM Trần Thị Kim Cương, mỗi loại hình quỹ mở sẽ có chiến lược, cấu trúc danh mục đầu tư khác nhau dẫn đến biến động và khả năng sinh lời cũng khác nhau. Một lưu ý quan trọng, theo bà là nhà đầu tư nên tìm hiểu các công ty quản lý quỹ có tiềm lực, kinh nghiệm và uy tín.

“Thông thường, thời gian đầu tư dài và phương pháp đều đặn kỷ luật sẽ giúp mang lại hiệu quả cao hơn cho nhà đầu tư, nhờ vào việc trung bình giá mua bất chấp biến động thị trường”, bà Kim Cương nhấn mạnh.

Tất Đạt

Những lưu ý khi đầu tư cổ phiếu vừa và nhỏ

Nhóm cổ phiếu vừa và nhỏ tăng giá nhanh gấp đôi so với thị trường chung nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro, đòi hỏi nhà đầu tư phân tích kỹ lưỡng, theo chuyên gia.

Chứng khoán khép lại năm 2023 với VN-Index tăng 12,2%. Thị trường năm ngoái được dẫn dắt bởi nhóm cổ phiếu vốn hóa vừa (VNMidcap) và nhỏ (VNSmallcap). Theo thống kê của nền tảng theo dõi dữ liệu chứng khoán toàn thế giới Investing, nhóm VNMidcap và VNSmallcap tăng lần lượt hơn 32% và gần 29%, cao hơn nhiều so với mức tăng hơn 12% của VN-Index. Các cổ phiếu tăng mạnh nhất sàn HoSE đều là các mã vừa và nhỏ như VIX, CTD, BSI, FTS, QCG…

Nếu tính đến trước Tết Nguyên đán, hiệu suất của các cổ phiếu vừa và nhỏ còn cao hơn. VNMidcap tích lũy hơn 37% so với đầu năm 2023, còn VNSmallcap tăng gần 32,5%. Hai mức này cao gần gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng của thị trường chung.

Ông Nguyễn Thành Trung – Trưởng phòng Tư vấn đầu tư Công ty Chứng khoán Thành Công (TCSC – TCI) – lý giải hiệu suất nhóm cổ phiếu vừa và nhỏ cao hơn hẳn thị trường vì chỉ số chung bị tác động chủ yếu bởi nhóm vốn hóa lớn như VN30 và ngân hàng.

“Chính vì vậy có thể xem đây là sự so sánh giữa nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn với nhóm vừa và nhỏ”, ông nói.

Theo chuyên gia, về bản chất, giá cổ phiếu có sự liên kết chặt chẽ với việc tăng trưởng của các doanh nghiệp như doanh số, lợi nhuận, quy mô công ty. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường đang trong giai đoạn tăng trưởng chính, vì vậy dư địa phát triển cũng nhiều hơn so với các “ông lớn”. Với tính chất rủi ro cao hơn, biến động cổ phiếu thường lớn hơn và bản thân các nhà đầu tư cũng yêu cầu một mức tỷ suất lớn hơn.

Ông Trung dẫn nghiên cứu về thị trường chứng khoán Mỹ giai đoạn 1927-2009 cho thấy, cổ phiếu doanh nghiệp vốn hóa nhỏ thường có tỷ suất sinh lời tốt hơn cổ phiếu doanh nghiệp có vốn hóa lớn với tỷ lệ trung bình là 3,6% một năm. Ở Việt Nam, tính từ tháng 8/2015 đến nay – thời điểm ba chỉ số VN30, VNMidcap và VNSmallcap cùng tồn tại, tốc độ tăng trưởng kép tổng lợi nhuận (bao gồm cổ tức) của các chỉ số này lần lượt là 9,5%; 14,3% và 12,9%.

Tuy nhiên, ông Trung lưu ý việc nhiều người thành công ở nhóm cổ phiếu vừa và nhỏ không đồng nghĩa với việc cứ rót tiền vào nhóm VNMidcap và VNSmallcap đều sinh lợi. Nhà đầu tư dễ đưa ra quyết định sai lầm nếu quên rằng thị trường vẫn có nhiều người thất bại khi bỏ vốn cho các nhóm cổ phiếu kể trên.

Năm ngoái, quỹ đầu tư tiếp cận thị trường (VESAF) của VinaCapital đạt hiệu suất tăng trưởng gần 31%, cao thứ hai toàn thị trường. Đây là quỹ đầu tư chủ yếu vào các cổ phiếu niêm yết có vốn hóa vừa và nhỏ, các cổ phiếu có giới hạn tỉ lệ sở hữu nước ngoài, đặc biệt là các cổ phiếu đã hết room cho nhà đầu tư nước ngoài.

Bà Nguyễn Hoài Thu – Tổng giám đốc khối Đầu tư chứng khoán – xác nhận rằng trong phần lợi nhuận vượt trội hơn thị trường của các quỹ mà VinaCapital quản lý, có một phần đáng kể đóng góp từ các cổ phiếu vừa và nhỏ. “Tuy nhiên, không phải là cứ tập trung vào nhóm cổ phiếu vừa và nhỏ là sẽ có lợi nhuận vượt trội”, bà nhấn mạnh.

VinaCapital cho biết họ đã tiến hành đo lường mức độ rủi ro của từng nhóm cổ phiếu. Nhóm vừa và nhỏ trên thị trường nói chung luôn có mức độ rủi ro cao hơn nhóm vốn hóa lớn. Tuy nhiên, những cổ phiếu vừa và nhỏ mà quỹ này lựa chọn lại có mức độ rủi ro thấp hơn thị trường chung và đem lại lợi nhuận vượt trội hơn.

“Điều đó cho thấy yếu tố cốt lõi mang đến kết quả đầu tư tích cực của các quỹ đầu tư do VinaCapital quản lý là lựa chọn đúng cổ phiếu. Cho dù là cổ phiếu vốn hóa lớn hay vừa và nhỏ, nếu mua vào những cổ phiếu không có nền tảng cơ bản, sẽ không thể có lợi nhuận vượt trội so với thị trường, đồng thời rủi ro là rất lớn”, bà Thu chia sẻ.

Nhà đầu tư đang theo dõi bảng điện tại một sàn giao dịch chứng khoán ở quận 1 (TP HCM), tháng 3/2021. Ảnh: Quỳnh Trần

Nhà đầu tư đang theo dõi bảng điện tại một sàn giao dịch chứng khoán ở quận 1 (TP HCM), tháng 3/2021. Ảnh: Quỳnh Trần

Chuyên gia VinaCapital lưu ý rằng, các cổ phiếu vừa và nhỏ nhìn chung có mức độ rủi ro cao hơn nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn. Tuy nhiên, trong nhóm này cũng có những cổ phiếu, dù chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, có rủi ro thấp đồng thời có khả năng mang lại lợi nhuận vượt trội. Yếu tố quyết định kết quả đầu tư là phải nhìn nhận ra và lựa chọn được những cổ phiếu này.

Với những nhà đầu tư không chuyên nghiệp, việc lựa chọn cổ phiếu không dễ dàng do họ dễ bị ảnh hưởng tâm lý theo hướng giao dịch bất lợi (mua cao, bán thấp theo xu hướng tâm lý đám đông), giao dịch tần suất cao nhưng lại không hiệu quả khi nghe theo các tin tức thiếu kiểm chứng, mua bán không căn cứ vào giá trị nội tại của doanh nghiệp. Do đó, lời khuyên của VinaCapital là nhà đầu tư cần giữ tâm lý bình tĩnh khi tham gia thị trường, phân tích mọi thông tin một cách thấu đáo, đầu tư với tầm nhìn dài hạn và dựa trên giá trị căn bản.

Tương tự, ông Nguyễn Thành Trung cũng nhắc các nhà đầu tư cần nhớ rõ nhóm cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ sẽ có rủi ro cao hơn, thanh khoản thấp hơn và dễ bị “tác động” hơn. Vì vậy chỉ những người có khẩu vị rủi ro vừa và cao mới phù hợp cho nhóm cổ phiếu này.

“Dù đầu tư bất kỳ cổ phiếu nào, nhà đầu tư cũng cần một quá trình phân tích kỹ lưỡng về vĩ mô ngành, năng lực lãnh đạo, tình hình kinh doanh, tài chính và định giá doanh nghiệp, từ đó hiểu rõ về rủi ro và thành quả của mỗi trường hợp đầu tư tham gia”, chuyên gia TCSC nói thêm.

Tất Đạt

Đầu tư cổ phiếu nào trong năm nay?

Cổ phiếu ngân hàng, bán lẻ, công nghệ thông tin, xây dựng hạ tầng, khu công nghiệp… đang được khuyến nghị nhiều.

Dự báo về thị trường chứng khoán năm nay, các quỹ đầu tư, đơn vị phân tích thị trường và công ty chứng khoán đều đồng thuận rằng VN-Index có thể tăng 15-25% về điểm số nhờ sự hỗ trợ chính từ nền lãi suất thấp và lợi nhuận doanh nghiệp tăng lên. Các đơn vị cùng chung dự báo rằng lợi nhuận doanh nghiệp sẽ phục hồi ít nhất 15-20% trong năm nay. Tuy nhiên mức độ phục hồi có sự phân hóa lớn giữa các ngành. Do đó, nhà đầu tư cần quan sát, phân tích và chọn lọc kỹ để tối ưu danh mục.

Theo VinaCapital, nếu biết lựa chọn khéo léo về ngành và cổ phiếu, nhà đầu tư sẽ có nhiều cơ hội mang về hiệu quả vượt trội hơn mặt bằng chung thị trường. Trong năm nay, quỹ ngoại này ưa chuộng các cổ phiếu công nghệ thông tin, ngân hàng, bất động sản, hàng tiêu dùng không thiết yếu và nhóm chứng khoán. Riêng nhóm hàng tiêu dùng và bất động sản được dự báo có mức phục hồi lợi nhuận tốt hơn hẳn do mức nền thấp của năm trước.

Ông Michael Kokalari – Giám đốc phòng Phân tích kinh tế vĩ mô và Nghiên cứu thị trường VinaCapital, phân tích rằng các công ty tiêu dùng sẽ hưởng lợi từ sự phục hồi đang tiếp diễn trong chi tiêu của người dân với tổng doanh số bán lẻ loại trừ yếu tố lạm phát dự đoán tăng 7,5%. Theo đó, ông kỳ vọng lợi nhuận của các doanh nghiệp ngành này sẽ hồi phục từ mức giảm 22% trong năm trước, lên tăng 33% năm nay.

Ngoài ngành tiêu dùng, các nhà phát triển bất động sản (trừ Vinhomes) cũng được VinaCapital đánh giá hưởng lợi từ sự phục hồi khiêm tốn năm nay. Dự kiến, lợi nhuận các doanh nghiệp từ mức giảm 51% lên tăng 109% trong năm 2024. Như vậy so với mặt bằng chung toàn thị trường, ngành tiêu dùng và bất động sản có tăng trưởng lợi nhuận lần lượt lớn gấp đôi và gấp 5 lần.

VinaCapital nói ngoài lựa chọn những nhóm ngành nêu trên, lựa chọn từng cổ phiếu cũng quan trọng. Thị trường chứng khoán có hàng trăm mã cỡ nhỏ và vừa, là một nguồn cơ hội tiềm năng để có lợi nhuận vượt trội thị trường khi năm ngoái, các cổ phiếu này đều tăng khoảng 30%, vượt xa hiệu suất tổng thể. Tuy nhiên quỹ này lưu ý đây là cơ hội cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp, như chính VinaCapital. Trong khi đó, nhiều cổ phiếu vừa và nhỏ không được theo dõi sát sao hoặc hiểu rõ bởi nhà đầu tư bán lẻ trong nước.

Nhà đầu tư đang theo dõi thị trường tại một sàn giao dịch chứng khoán ở TP HCM, tháng 3/2021. Ảnh: Quỳnh Trần

Nhà đầu tư đang theo dõi thị trường tại một sàn giao dịch chứng khoán ở TP HCM, tháng 3/2021. Ảnh: Quỳnh Trần

Với phương pháp ưu tiên những ngành tăng trưởng lợi nhuận tốt, Dragon Capital cũng vừa công bố danh mục đầu tư hiện tại. Trong đó, quỹ DCDE đang rót tiền nhiều nhất vào các ngành ngân hàng, bán lẻ, bất động sản dân cư, công nghệ thông tin, thép, hóa chất và chứng khoán. Theo dự báo của quỹ ngoại này, các ngành kể trên đều có triển vọng tăng lợi nhuận với tốc độ hai con số trong năm nay. Cao nhất là bán lẻ với gần 153%, theo sau là nhóm thép (47%) và hóa chất (39%).

Bên cạnh tăng trưởng lợi nhuận, Dragon Capital còn cho rằng đây là những nhóm có mức độ biến động thấp hơn mức chung của thị trường, phù hợp với chiến lược cẩn trọng nhất định của quỹ này. Các chuyên gia lưu ý, nhà đầu tư không thiết lập một danh mục quá phụ thuộc vào một ngành nào đó để tránh khi xuất hiện rủi ro sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ số tiền đã rót vào thị trường.

Các công ty chứng khoán cũng gợi ý nhà đầu tư lựa chọn cổ phiếu trong năm nay thông qua triển vọng tăng trưởng lợi nhuận từng ngành. Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho rằng sự phân hóa giữa các cổ phiếu sẽ tiếp tục rõ nét hơn đặt trong bối cảnh mức độ biến động lớn của thị trường.

“Nhà đầu tư cần vừa sàng lọc và tìm kiếm cơ hội đầu tư ở những doanh nghiệp có triển vọng tốt, vừa chú ý lựa chọn thời điểm giải ngân khi giá cổ phiếu vẫn đang được giao dịch ở vùng định giá hợp lý để đảm bảo mục tiêu quản trị rủi ro”, nhóm phân tích này lưu ý.

Theo VCBS, mặt bằng lãi suất tiếp tục ở mức thấp và vẫn có thể giảm thêm, làn sóng chuyển dịch một phần hoạt động sản xuất từ Trung Quốc, hoạt động đầu tư công vẫn tiếp tục là điểm nhấn đáng chú ý trong thời gian tới. Do đó, các ngành được hưởng lợi sẽ là ngân hàng, bất động sản khu công nghiệp, các doanh nghiệp phát triển hạ tầng.

Với nhà đầu tư muốn nắm giữ cổ phiếu dài hạn cho mục tiêu tích sản, VCBS gợi ý có thể tìm kiếm cơ hội ở các ngành có tính chất “phòng thủ”, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu ngành với kết quả kinh doanh ít phụ thuộc hơn vào chu kỳ kinh tế. Trên thị trường chứng khoán, các cổ phiếu có đặc điểm như vậy thường là các doanh nghiệp có yếu tố nhà nước và hoạt động ở những ngành như công nghệ thông tin, viễn thông, các nhóm tiện ích như thủy điện, nhiệt điện, cấp nước…

Tất Đạt

Chọn kênh đầu tư nào khi lãi suất tiết kiệm xuống đáy?

Lãi suất xuống thấp, nhưng các kênh khác như chứng khoán hay bất động sản không phải là lựa chọn quá hấp dẫn trước những yếu tố bất định của vĩ mô.

Gửi tiết kiệm

Thời gian qua, các ngân hàng liên tục hạ mạnh lãi suất tiền gửi. Khảo sát vào đầu tháng 10 của VnExpress cho thấy lãi suất kỳ hạn 12 tháng tại một số nhà băng lớn đã về dưới 5,5% một năm, thấp hơn cả giai đoạn Covid-19.

Theo ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc phân tích Công ty chứng khoán Yuanta, một bộ phận nhà đầu tư gửi tiền đã dịch chuyển sang các kênh có khả năng sinh lời cao hơn, như chứng khoán. Tuy nhiên, “bài học” của giai đoạn nửa cuối năm 2022 – chứng khoán lao dốc hay “bong bóng” bất động sản đầu cơ xì hơi quá nhanh – khiến sự dịch chuyển không quá ồ ạt.

“Nhà đầu tư có thể chỉ chuyển một phần tiền tiết kiệm qua đầu tư chứng khoán, bởi lo ngại việc all-in rồi gặp rủi ro như cuối năm 2022”, ông Nguyễn Thế Minh nói. Điều này có thể là nguyên nhân khiến gửi tiết kiệm, dù lãi suất thấp, vẫn là kênh đầu tư được nhiều người lựa chọn.

Ngoài ra, theo ông Phạm Hoàng Quang Kiệt – Phó trưởng phòng Nghiên cứu và phân tích tại Công ty Tư vấn đầu tư và Quản lý gia sản FIDT, lãi suất tiết kiệm đã có xu hướng chạm đáy với diễn biến hiện tại của nền kinh tế.

Dư địa giảm lãi suất thời điểm này không còn cao do Ngân hàng Nhà nước khó duy trì thanh khoản dư thừa khi tỷ giá chịu áp lực. Tín dụng quý cuối năm cũng thường tăng nhanh sẽ khiến các nhà băng khó hạ thêm lãi suất. Cùng với việc áp dụng tỷ lệ huy động vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn mới, theo dự báo của ông Kiệt, lãi suất huy động sẽ đi ngang từ nay đến hết quý I năm sau.

Chứng khoán

Xét từ đầu năm 2023, VN-Index đã tăng hơn 14%, tuy nhiên diễn biến của thị trường không phải một đường đi lên.

Chỉ số của sàn HoSE tăng mạnh trong tháng đầu tiên của năm rồi chững lại, đi ngang cho tới cuối tháng 4. Ba tháng sau đó, VN-Index vọt hơn 20%, từ vùng 1.035 lên gần 1.250 điểm. Dù vậy, mức đỉnh ngắn hạn không giữ được lâu. Chỉ số của HoSE lần thứ hai chạm 1.250 điểm vào tháng 9 rồi điều chỉnh về sát ngưỡng 1.100 điểm, mất hơn 11% chỉ trong hơn một tháng.

Một điểm khác biệt so với những nhịp tăng trong giai đoạn 2021 là tâm lý thị trường.

Lãi suất và chứng khoán được đánh giá là ngược chiều nhau khi lãi suất tăng, chứng khoán giảm và ngược lại. Tuy nhiên, giai đoạn hiện tại khi lãi suất liên tục xuống thấp nhưng chứng khoán vẫn không đột biến. Dù có lúc VN-Index ghi nhận mức tăng hơn 20%, dòng tiền vẫn khá thận trọng.

Theo các chuyên gia, diễn biến vĩ mô còn nhiều yếu tố khó lường, cùng “bài học” từ nhịp giảm sâu của thị trường nửa cuối năm 2022 với nhiều điểm tương đồng với bối cảnh hiện nay, khiến nhà đầu tư không còn “all-in” vào một kênh có mức độ rủi ro cao như chứng khoán.




Giao dịch trên sàn một công ty chứng khoán tại Quận 1, TP HCM vào tháng 2/2022. Ảnh: Quỳnh Trần

Giao dịch trên sàn một công ty chứng khoán tại Quận 1, TP HCM vào tháng 2/2022. Ảnh: Quỳnh Trần

Bà Nguyễn Thị Hoài Thu – Giám đốc khối Đầu tư của VinaCapital – cho rằng thị trường sẽ còn biến động trong ngắn hạn, cũng là “diễn biến bình thường và dễ hiểu” vì VN-Index đã có nhịp tăng tốt trong thời gian dài. Theo chuyên gia từ VinaCapital, nhà đầu tư dài hạn không nên lo lắng bởi về lâu dài chứng khoán sẽ diễn biến tích cực với tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận, mức định giá hấp dẫn.

Tuy nhiên, đơn vị này cũng lưu ý, thị trường trong năm sau có thể còn nhiều rủi ro khi diễn biến vĩ mô nhiều yếu tố bất định, về khả năng suy thoái ở các nền kinh tế lớn, Fed tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ hay căng thẳng địa chính trị. Trong nước, các vấn đề về đáo hạn nợ trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản cần nhiều thời gian hơn để phục hồi, lạm phát hay áp lực tỷ giá sẽ là những yếu tố cần theo dõi chặt chẽ.

Ở góc nhìn tích cực hơn, ông Quản Trọng Thành – Giám đốc Nghiên cứu phân tích Maybank Investment Bank Việt Nam (MSVN), cho rằng thị trường chứng khoán trong 6 tháng tới có thể mang nhiều nét tương đồng so với năm 2013 khi bối cảnh kinh tế khá giống nhau như bất động sản đóng băng, nợ xấu trong ngân hàng có xu hướng tăng.

Thực tế trong năm 2013, VN-Index tăng mạnh trong nửa đầu năm, sau đó có mức điều chỉnh khá lớn. Nhưng nhờ nới lỏng tiền tệ, giảm nợ xấu và các chính sách điều hành khác, thị trường đón làn sóng tăng trưởng trở lại trong những tháng cuối năm.

MSVN cho rằng thị trường chứng khoán thời gian tới cũng phục hồi tương tự, vì nền kinh tế Việt Nam hiện tại có nhiều điều kiện tích cực hơn hẳn thời điểm 2013.

Bất động sản

Theo ông Trần Khánh Quang – Tổng giám đốc Công ty Việt An Hòa, thị trường bất động sản đang trong giai đoạn đầu của quá trình phục hồi. Chính phủ gỡ pháp lý cho các dự án là tín hiệu tốt, nhưng phải có thêm thời gian để khơi thông hẳn các điểm nghẽn. Bên cạnh đó, lãi suất ngân hàng hạ nhiệt và dư địa tăng tín dụng lớn, nhưng các nhà băng vẫn còn rụt rè cho vay bất động sản.

Thời gian qua, một số chủ đầu tư đã bắt đầu mở bán trở lại. Tuy nhiên, ông Quang nói đây chỉ là bước thăm dò thị trường. Về phía khách hàng, họ bắt đầu tham gia kênh này nhưng chỉ chuộng phân khúc có nhu cầu thực và vị trí khu trung tâm. Cả hai phía tạo ra độ “nén” về đầu tư. Do đó, những tháng cuối năm có thể xuất hiện yếu tố mùa vụ giúp hỗ trợ thị trường.

Tuy nhiên ở giai đoạn này, ông Quang lưu ý không phải ai cũng phù hợp để rót tiền vào bất động sản. Chuyên gia này nhận định có hai đối tượng có thể cân nhắc tham gia.

Thứ nhất là những người có nhu cầu mua ở thực, mong muốn sở hữu bất động sản phát sinh từ gia tăng dân số, kết hôn và di cư, nhất là các đại đô thị. Trong bối cảnh giá bất động sản giảm mạnh, lãi suất đang hạ nhiệt và nhóm này cũng dễ được ngân hàng ưu tiên cho vay hơn, đây là thời điểm tốt để họ mua được sản phẩm vừa ý.

Thứ hai là những nhà đầu tư lâu năm thoát được đợt khủng hoảng vừa qua. Nhóm này có sẵn kinh nghiệm để chọn sản phẩm, thương lượng giá cả và tìm cách tiếp cận vốn. Với đặc trưng sử dụng tỷ lệ đòn bẩy cao, trong bối cảnh lãi suất giảm, nhà đầu tư lâu năm dễ có lợi nhuận hơn giai đoạn trước.

Ông Quang khuyên những nhà đầu tư mới tham gia thị trường cần cân nhắc và nghiên cứu cẩn thận trước khi rót tiền. Hiện tại bất động sản giảm giá mạnh nhưng để hiểu rõ về một sản phẩm, đòi hỏi người mua phải có nhiều kiến thức và kỹ năng. Theo ông, nhà đầu tư mới nên tránh các bất động sản mập mờ về pháp lý, tránh các khu vực mà bản thân thiếu thông tin và có vị trí quá xa những đại đô thị.

Vàng và USD

Giá vàng trong nước có xu hướng đi lên trong hơn hai tháng qua, tổng cộng đã tăng 2 triệu đồng một lượng. Vàng SJC từ giữa tháng 9 tới nay duy trì giá bán ra quanh 69 triệu đồng một lượng.

Tương tự, tỷ giá đôla Mỹ trên thị trường ngân hàng và tự do gần đây đạt mức cao nhất 9 tháng qua, quanh ngưỡng 24.000-24.500 đồng đổi 1 USD.

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thế Minh, đà tăng của đồng bạc xanh có thể chỉ mang tính ngắn hạn. “Mọi người đang lo ngại về tỷ giá, nhưng USD sẽ khó tăng nóng như năm 2022”, Giám đốc phân tích Công ty chứng khoán Yuanta nhận xét.

Năm ngoái, tỷ giá “nổi sóng” trong quý III khi giá USD ngân hàng lập đỉnh, lên sát 24.900 đồng. Tỷ giá ngân hàng có lúc tăng lên gần 8,5% so với đầu năm, trước khi hạ nhiệt vào tháng cuối năm. Đợt tăng nóng của tỷ giá năm 2022 diễn ra sau khi Ngân hàng Nhà nước cho phép nới biên độ tỷ giá giao ngay thêm 2%, trước diễn biến quốc tế khó lường khi xu hướng của các ngân hàng trung ương trên thế giới tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ.

Còn với diễn biến tăng gần đây của đồng bạc xanh, ông Minh cho rằng do tình hình lạm phát tăng trong ngắn hạn. Chỉ số CPI chung và cơ bản của Mỹ trong tháng 8 lần lượt tăng 3,7% và 4,3% so với cùng kỳ 2022, cao hơn mức tăng 3,2% và 4,2% của tháng trước đó. Ngược lại, doanh thu bán lẻ vẫn duy trì tốc độ tăng tích cực. Điều này đã giúp cho chỉ số DXY duy trì được sức mạnh.

Theo chuyên gia này, triển vọng trung và dài hạn của USD vẫn trong xu hướng giảm, bởi đồng bạc xanh đang “xoay” khá nhiều theo xu hướng chính sách của Fed. Đà tăng lãi suất liên tục từ năm 2022 đang dần đạt tới đỉnh và sau đó có thể đi ngang hoặc giảm. Chính sách tiền tệ có thể nới lỏng trở lại khi tình hình lạm phát dần hạ nhiệt.

Theo ông Phạm Hoàng Quang Kiệt, xét về xu hướng, ngoại tệ và vàng có tính tương phản. Trong giai đoạn trung hạn, với lãi suất Mỹ đang vùng đỉnh lịch sử, xu hướng giảm trong hai năm tới sẽ khả thi hơn. Đây sẽ là yếu tố hỗ trợ về giá cho vàng trong thời gian tới.

Tỷ giá USD đang ở ngưỡng mà Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ điều tiết, nên dư địa tăng của tỷ giá không nhiều. Vàng vẫn là kênh phòng thủ và lợi suất tăng trưởng bình quân của vàng trong nước không quá 9% trong 10 năm qua, nên chuyên gia này không khuyến nghị tăng tỷ trọng quá 10% trên tổng tài sản.

Minh Sơn – Tất Đạt

Đầu tư cổ phiếu kết hợp trái phiếu trong thị trường giá xuống

Phân bổ tài sản cho cả cổ phiếu và trái phiếu theo mô hình 60/40 để hạn chế rủi ro được các chuyên gia xem là chiến lược đầu tư tốt thời gian tới.

Danh mục đầu tư 60/40 là mô hình phân chia tài sản thành 60% vốn cho cổ phiếu và 40% dành cho trái phiếu. Đây là một danh mục đầu tư truyền thống có mức độ rủi ro vừa phải. Khi cổ phiếu hoạt động kém hiệu quả, trái phiếu sẽ đóng vai trò bệ đỡ và hỗ trợ vì chúng thường có diễn biến trái chiều nhau.

Báo cáo mới đây của Vanguard – một trong những công ty quản lý đầu tư hàng đầu thế giới cho thấy, các danh mục đầu tư 60/40 đã giảm khoảng 16% giá trị ròng trong năm 2022. Đơn vị này nhận định, năm 2022 trở thành giai đoạn khó khăn đối với các nhà đầu tư theo đuổi mô hình cân bằng cổ phiếu và trái phiếu, làm dấy lên nghi ngờ về tính khả thi của chiến lược này.

John Bilton – Trưởng bộ phận Chiến lược đa tài sản toàn cầu tại JP Morgan Asset Management, cho rằng yếu tố khách quan chính là nguyên nhân khiến mô hình đầu tư này gặp khó khi cả cổ phiếu và trái phiếu đều bị thua lỗ đáng kể. “2022 là một năm khó khăn với tất cả nhà đầu tư, không có cách nào tránh khỏi”, ông nói.

Thực tế nếu xét trong dài hạn, danh mục đầu tư 60/40 vẫn thu được kết quả tích cực. Theo tính toán của Vanguard, lợi nhuận hàng năm trong giai đoạn 2012-2022 của mô hình này là 6,1%. Nếu tính giai đoạn 9 năm, tỷ suất sinh lời hàng năm lên đến 8,9%.

Ziqi Tan – chiến lược gia đầu tư của Vanguard, cho biết: “Chứng khoán đang được định giá thấp khiến triển vọng lợi nhuận và kịch bản rủi ro trong trường hợp xấu nhất đối với danh mục đầu tư 60/40 được cải thiện đáng kể”.

Nhóm chuyên gia JP Morgan xem xét 200 loại tài sản và chiến lược chính để dự báo lợi nhuận trong khoảng thời gian đầu tư 10-15 năm tới. Kết luận đưa ra là các nguyên tắc cốt lõi của đầu tư vẫn là chiến lược vững chắc, trong đó có mô hình 60/40.

Danh mục đầu tư 60/40, như tên gọi của nó, yêu cầu nhà đầu tư phải phân bổ 60% cổ phiếu và 40% trái phiếu. Nhưng trước khi thật sự rót tiền, các chuyên gia CNBC khuyên những người mới tham gia thị trường nên suy nghĩ về mức độ chấp nhận và khả năng chịu đựng rủi ro của bản thân. Danh mục đầu tư 60/40 có rủi ro vừa phải, nhưng nếu khả năng chịu đựng rủi ro thấp, nhà đầu tư có thể điều chỉnh tỷ lệ phân bố cổ phiếu và trái phiếu cho phù hợp.

Đối với những người mới, ETF được xem là một cách đơn giản với chi phí thấp để tham gia chiến lược 60/40. ETF (Exchange Traded Fund) là loại quỹ đầu tư mô phỏng theo biến động của chỉ số chứng khoán hoặc trái phiếu. ETF được niêm yết và giao dịch trên Sở Giao dịch chứng khoán tương tự cổ phiếu. Đây được xem là một cách đầu tư chứng khoán thụ động.

Nếu muốn chủ động hơn, nhà đầu tư có thể tự phân bổ tài sản. Trái phiếu chính phủ vẫn là sự lựa chọn hàng đầu cho 40% tài sản. Phần còn lại phụ thuộc vào cách nhà đầu tư chọn cổ phiếu. Cần lưu ý, ngay cả những cổ phiếu hoạt động tốt trong lịch sử cũng có thể xuất hiện rủi ro. Cách an toàn là không nên “cho trứng vào một giỏ”, cần đa dạng danh mục cổ phiếu theo nhiều ngành nghề, nhiều doanh nghiệp để tránh bị lỗ nặng nếu một mã nào đó giảm giá mạnh.

Danh mục 60/40 là cách đầu tư đơn giản, nhưng có một số nhược điểm cần xem xét. Robert Johnson, giáo sư tài chính tại Đại học Kinh doanh Heider thuộc Đại học Creighton, nói với công ty cố vấn đầu tư SmartAsset Advisors rằng: “Bất lợi lớn nhất là về lâu dài, mô hình 60/40 sẽ hoạt động kém hơn danh mục đầu tư toàn cổ phiếu. Và trong khoảng thời gian rất dài, nó sẽ hoạt động kém hiệu quả đáng kể do ảnh hưởng của lãi suất kép”.

Nói cách khác, nhà đầu tư phải đánh đổi lợi nhuận lớn để có được sự an toàn. Theo dữ liệu của Dragon Capital Việt Nam (DCVFM), tính đến năm 2021, tỷ suất sinh lãi của cổ phiếu trong 21 năm đạt gần 16% trong khi trái phiếu chỉ hơn 9%.

Tóm lại, danh mục đầu tư 60/40 phù hợp với người có khả năng chấp nhận rủi ro kém, điều kiện không cho phép bản thân theo đuổi một danh mục đầu tư toàn bộ cổ phiếu. Mô hình này cũng được nhiều chuyên gia khuyên phù hợp với những người gần đến tuổi nghỉ hưu, thường muốn giảm tiếp xúc với cổ phiếu và tăng tỷ lệ nắm giữ trái phiếu hoặc thu nhập cố định, tạo ra lợi nhuận ổn định.

Tiểu Gu

Đường MACD là gì?

MACD là chỉ báo kỹ thuật thông dụng khi phân tích chứng khoán, phản ánh biến động và cung cấp tín hiệu mua bán của thị trường.

Đường MACD (Moving Average Convergence Divergence) hay còn được gọi là đường trung bình động hội tụ phân kỳ. Đường MACD ra đời từ năm 1979 bởi nhà phát minh Gerald Appel. Đây được coi là một trong những chỉ báo kỹ thuật phổ biến và thông dụng trong phân tích đầu tư chứng khoán.

MACD là giá trị tìm được khi lấy đường trung bình động (EMA) 12 ngày trừ đi đường trung bình động 26 ngày.

MACD = EMA (12) – EMA (26)

Theo đó, nếu giá trị trung bình trượt 12 ngày lớn hơn giá trị trung bình trượt 26 ngày thì MACD dương. Ngược lại, nếu giá trị trung bình 12 ngày nhỏ hơn giá trị trung bình 26 ngày thì MACD âm.

Khi phân tích, bên cạnh đường MACD cơ bản còn có đường tín hiệu. Đường tín hiệu sẽ là đường trung bình động EMA 9 ngày của MACD. Sử dụng kết hợp phân tích đường tín hiệu với đường MACD có thể giúp phát hiện các điểm ra và điểm vào của thị trường.

Nếu đường MACD giao với đường tín hiệu từ dưới lên sẽ báo hiệu giá sẽ tăng hơn mức hiện tại. Đây là tín hiệu để các nhà đầu tư cân nhắc mua vào.

Nếu đường MACD vượt đường tín hiệu từ trên xuống báo hiệu giá đang trên đà giảm. Khi này các nhà đầu tư cân nhắc vào lệnh bán.

Thông thường, đường MACD được thể hiện bằng màu xanh, còn đường tín hiệu được thể hiện bằng màu đỏ.

Đường MACD (màu xanh) đi xuống dưới đường tín hiệu (màu đỏ).

Đường MACD (màu xanh) đi xuống dưới đường tín hiệu (màu đỏ).

Biểu đồ MACD cũng có thể cung cấp tín hiệu qua sự phân kỳ/hội tụ giữa đường MACD và diễn biến giá của chứng khoán.

Thường thì khi giá cổ phiếu đi lên thì đường MACD cũng đi lên và ngược lại. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy, khi đó sẽ xảy ra phân kỳ hoặc hội tụ.

Nếu giá cổ phiếu đang trong xu hướng đi lên nhưng đường MACD đi xuống, như biểu đồ ở dưới đây, 2 đường màu đỏ đi theo 2 hướng xa nhau, đó gọi là phân kỳ.

Xu hướng giá và đường MACD tạo ra phân kỳ.

Xu hướng giá và đường MACD tạo ra phân kỳ.

Điều này cảnh báo cổ phiếu có khả năng đảo chiều từ tăng giá sang giảm giá, nhà đầu tư cân nhắc việc bán cổ phiếu khi phân kỳ xảy ra.

Ngược lại, nếu giá cổ phiếu đi xuống nhưng đường MACD đi lên, 2 đường màu xanh đi theo hướng gần nhau, đây được gọi là hội tụ.

Xu hướng giá và đường MACD tạo ra hội tụ.

Xu hướng giá và đường MACD tạo ra hội tụ.

Đây là tín hiệu cổ phiếu có thể đảo chiều từ giảm giá sang tăng giá, nhà đầu tư xem xét mua cổ phiếu khi hội tụ xảy ra.

Tuy nhiên, bất cứ một kỹ thuật hay chỉ báo phân tích nào cũng sẽ có những ưu nhược điểm, và chỉ số MACD cũng không ngoại lệ. Chỉ báo MACD không phải lúc nào cũng chính xác và có thể cung cấp tín hiệu sai lệch và gây nhầm lẫn.

Để sử dụng được hiệu quả và thành thạo biểu đồ MACD yêu cầu nhà đầu tư nên linh hoạt với thị trường, cập nhật nhanh chóng cũng như biết được khung thời gian nào hợp lý để MACD hoạt động hiệu quả nhất.

Hơn nữa, nhà đầu tư có thể sử dụng kết hợp MACD với các chỉ báo khác để giảm rủi ro và xác nhận thêm các tín hiệu.