Các công ty chứng khoán cho vay kỷ lục trong quý II, gần 220.000 tỷ đồng, song giới chuyên gia nói không đáng ngại do một phần được hấp thụ bởi các thương vụ riêng.
Theo báo cáo tài chính quý II, dư nợ cho vay ký quỹ (margin) của các công ty chứng khoán tăng mạnh. Vay margin là việc nhà đầu tư vay thêm tiền của công ty chứng khoán để tăng sức mua, sau đó sử dụng chính các cổ phiếu này làm tài sản thế chấp.
Tính đến hết quý II, theo thống kê của FiinGroup (công ty chuyên cung cấp các dịch vụ phân tích dữ liệu và xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam), quy mô dư nợ margin của 62 công ty chứng khoán đạt gần 220.000 tỷ đồng. Đây là mức kỷ lục từ trước đến nay và vượt qua đỉnh quý I/2021 (184.400 tỷ). Tỷ lệ dư nợ cho vay margin trên tổng vốn hóa cũng cao kỷ lục, ở mức 9,4%.
Dù vậy, tốc độ tăng về quy mô cho vay không đồng đều, chủ yếu ở nhóm các công ty chứng khoán lớn và một số đơn vị tầm trung. Đơn cử tại Công ty chứng khoán Kỹ Thương, khoản mục cho vay hoạt động ký quỹ đến cuối quý II đạt gần 24.200 tỷ đồng, tăng hơn 51% so với đầu năm. Công ty chứng khoán TP HCM (HSC) ghi nhận quy mô cho vay giao dịch chứng khoán tăng gấp rưỡi, từ 12.100 tỷ vào đầu năm lên hơn 18.500 tỷ đồng. SSI, VNDirect – những công ty trong nhóm đầu về thị phần môi giới – cũng tăng dư nợ vay ký quỹ vài nghìn tỷ trong những tháng gần đây.
Ở nhóm tầm trung, quy mô cho vay của Chứng khoán Tiên Phong (TPS) – công ty chứng khoán trong hệ sinh thái của TPBank – tăng gấp đôi trong nửa đầu năm, đạt gần 2.200 tỷ đồng tới hết tháng 6.
Tuy nhiên, vay margin tăng nhanh diễn ra trong giai đoạn thị trường chứng khoán biến động mạnh, thanh khoản không đột biến, thậm chí giảm. Đầu tháng 4, VN-Index rơi từ vùng 1.280 xuống dưới 1.180 điểm. Chỉ số của sàn HoSE được kéo lại trong tháng 5, nhưng vẫn thất bại khi chinh phục ngưỡng tâm lý 1.300 điểm. Cuối tháng 6, thị trường tiếp tục điều chỉnh về 1.250 điểm với thanh khoản sụt giảm.
“Sự tăng trưởng của dư nợ margin phần lớn liên quan đến các giao dịch cổ đông lớn và lãnh đạo doanh nghiệp, để mua lại các lô cổ phiếu thông qua thỏa thuận”, ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch kiêm CEO FiinGroup, bình luận.
Ông phân tích, quy mô cho vay ký quỹ đạt kỷ lục vào quý II nhưng diễn ra trong bối cảnh thanh khoản bình quân ngày không tăng so với 3 tháng đầu năm. “Nhà đầu tư cá nhân vẫn mua ròng nhiều, nhưng không thể hấp thụ quy mô cho vay margin tăng trong quý II”, CEO FiinGroup đánh giá.
Trong khi đó, số dư tiền gửi của nhà đầu tư tại các công ty chứng khoán giảm gần 10% so với quý trước. Những thay đổi này cho thấy vấn đề là quy mô dư nợ margin tăng cao không đến từ giao dịch của nhà đầu tư cá nhân.
Tương tự, ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc phân tích Công ty chứng khoán Yuanta cũng cho rằng dư nợ margin tăng trong quý II đến từ những “câu chuyện riêng”.
“Quy mô dư nợ margin tăng trong quý II tập trung nhiều ở những công ty chứng khoán hay làm ‘deal'”, ông Minh nói.
Theo chuyên gia này, riêng quý II, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng hơn 41.000 tỷ đồng. Quy mô bán ròng này một phần được đẩy ra thị trường, nhưng phần còn lại được hấp thụ bởi các nhà đầu tư trong nước, những cổ đông lớn của chính các doanh nghiệp. Do đó, một phần quy mô cho vay margin được sử dụng cho việc này.
Ngoài ra, theo ông Minh, chỉ tiêu cho vay ký quỹ gia tăng cũng là điều phù hợp với diễn biến tăng vốn của các công ty chứng khoán trong giai đoạn trước và sự mở rộng của số lượng nhà đầu tư.
Nhờ quy mô margin tăng trong quý II phần nhiều phục vụ các giao dịch “lô lớn”, CEO Fiingroup cho rằng rủi ro của thị trường được giảm bớt. “Nếu thị trường vẫn đi ngang, dao động trong biên độ như hiện nay, rủi ro do margin sẽ không lớn”, ông Thuận nhận xét.
Trong khi đó, ông Thế Minh cho rằng biến động nhanh của chứng khoán vài tháng gần đây đến từ hoạt động cho vay bên ngoài, thay vì các công ty chứng khoán.
Trên thị trường, “vay kho” là cách các nhà đầu tư sử dụng biện pháp ủy thác đầu tư nhằm dùng đòn bẩy quy mô lớn hơn. Hiện các công ty chứng khoán chỉ được phép cho vay tỷ lệ tối đa 50%, tức nhà đầu tư được mua chứng khoán với quy mô gấp đôi số tiền bỏ vào. Tỷ lệ này chỉ áp dụng với danh mục cổ phiếu nhất định, chủ yếu là những mã bluechip hoặc có nền tảng tốt.
Nhưng nếu dùng “vay kho”, tỷ lệ vay có thể lên 1:5 (nhà đầu tư bỏ ra 100 triệu có thể mua cổ phiếu quy mô 500 triệu đồng), thậm chí cao hơn. Danh mục vay cũng đa dạng, thậm chí các mã trên thị trường UPCoM cũng có thể áp dụng. Tuy nhiên, tỷ lệ vay càng lớn, rủi ro càng cao. Với tỷ lệ 1:5, cổ phiếu chỉ cần giảm hai phiên hết biên độ là có thể bị thanh lý vị thế. Với thị trường UPCoM, biên độ tới 15% mỗi phiên, một phiên giảm sàn có thể “cháy tài khoản”.
“Những phiên giao dịch với đặc thù tăng nhanh, giảm sốc, dao động với biên độ cao có thể do hoạt động xử lý của những ‘kho’ bên ngoài”, ông Minh nhận xét.
Minh Sơn